Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử chiến tranh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử chiến tranh. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 12 tháng 12, 2017

NHỮNG KẺ VÔ LƯƠNG TÂM VỚI NỖI ĐAU "CHẤT ĐỘC MÀU DA CAM"


          Chiến tranh đã đi qua nhưng hậu quả mà nó để lại trên đất nước Việt Nam còn đáng sợ hơn nhiều so với những gì nó đã cướp đi trong cuộc chiến. Những di chứng mà chất độc màu da cam (CĐMDC) và dioxin để lại là hàng vạn nạn nhân CĐMDC/ dioxin Việt Nam đã chết; đồng thời hàng triệu nạn nhân có con và cháu sinh ra bị dị tật bẩm sinh; nhiều phụ nữ không được hưởng hạnh phúc làm mẹ, rơi vào tuyệt vọng khi sinh ra những đứa con bệnh tật, dị dạng không ra hình người. Cho đến nay, hàng triệu nạn nhân Việt Nam vẫn đang hàng ngày phải vật lộn với những cơn đau mà di chứng CĐMDC/dioxin để lại, họ mất mát và đau khổ cả về vật chất và tinh thần. Những đau thương và mất mát đó đã đặt ra bao nhiêu câu hỏi mà chưa có câu trả lời hết được đó là chất độc đó sẽ tồn tại trong môi trường và trong những con người bị phơi nhiễm sẽ là bao lâu? Sẽ còn bao nhiêu thế hệ kế tiếp còn bị ảnh hưởng trong tương lai? Hậu quả sẽ thế nào?
          Trong khi báo chí trong nước và quốc tế thường xuyên có những bài viết tố cáo về tội ác của Mỹ trong cuộc chiến tranh hóa học ở Việt Nam, thì lại có những kẻ vô lương tâm lại đào xới nỗi đau dân tộc, nịnh bợ, bênh vực Mỹ. Chúng tôi gọi đó là bi kịch, bi kịch của dân tộc Việt Nam khi đã cưu mang, chứa chấp những tên phản đồ, bi kịch của những tên a dua theo cái xấu dẫm đạp lên cả tự tôn dân tộc.  

          Năm 1961, Tổng thống Mỹ John F.Kenedy phê chuẩn cho quân đội Mỹ tiến hành chiến dịch khai quang đồng cỏ Việt Nam, quyết định này được tổng thống Nam Việt Nam Ngô Đình Diệm (chính quyền do Mỹ dựng lên) nhiệt tình ủng hộ. Tuy nhiên, một số quan chức cấp cao trong Bộ Ngoại giao Mỹ như RogerHilsman và WAverell Harriman phản đối quyết định của tổng thống Kenedy, họ cho rằng hành động này sẽ tiêu hủy mùa màng của nông dân. Dư luận trên thế giới cũng lên án gay gắt, xem đây là một hành động trái pháp luật và dã man, tàn bạo. Mặc dù không được sự đồng tình của đại đa số dân Mỹ và các dân tộc trên thế giới, nhưng Mỹ vẫn thực hiện chiến dịch khai quang.  Mỹ đã từng sử dụng 15 loại thuốc diệt cỏ khác nhau tại Đông Nam Á, gồm các mã danh: "chất da cam "(Agent orange), "chất xanh" (Agent Blue, cacodylic acid), "chất trắng" (Agent White), "chất tím" (Agent Purple) và "chất hồng" (Agent Pink). Trong đó, chất độc da cam là hỗn hợp hai loại thuốc diệt cỏ 2-4-D và 2-4-5-T. Dioxin là tên được đặt cho một loại chất độc hại có trong chất độc da cam và các chất diệt cỏ khác. Bộ Cựu chiến binh Hoa Kỳ tuyên bố rằng chất độc da cam chỉ chứa một lượng nhỏ loại chất dioxin này, tuy nhiên những khu vực bị ảnh hưởng của chất độc da cam hay những nơi lưu trữ cho thấy nồng độ rất cao của chất dioxin. Tổ chức Y tế thế giới đã phân loại dioxin như một chất gây ung thư ở người, có thể làm hỏng các hệ thống trong cơ thể như nội tiết, hệ miễn dịch và thần kinh. Khi dioxin được rải xuống, nó không chỉ phá hủy cây cối, động vật và con người, nó còn thấm vào đất và nguồn nước ngầm, trở thành một phần của chuỗi thực phẩm. Khi ai đó ăn phải các loại cây trồng hoặc động vật đã bị nhiễm dioxin, nó sẽ bắt đầu tích lũy trong các mô mỡ.
                       (Nỗi đau chất độc màu da cam trên những đứa trẻ vô tội)
          Có rất nhiều tranh cãi về tác hại thực tế của chất độc da cam. Viện Y học thuộc viện Hàn lâm khoa học quốc gia Mỹ cho rằng có một mối liên hệ giữa chất độc da cam và sự hình thành một số loại ung thư trên con người. Thực tế cho thấy một số khu vực tại Việt Nam chịu sự ảnh hưởng của chất độc da cam có tỷ lệ cao các loại bệnh tật, di tật bẩm sinh và cả ung thư. Quân đội cũng như người dân Việt Nam là những người phải hứng chịu hậu quả nặng nề nhất, tuy nhiên chính những người lính Mỹ trong chiến tranh Việt Nam cũng chịu tác hại của chất độc da cam do tiếp xúc. Năm 1978, bộ cựu chiến binh đã thành lập một chương trình giúp đỡ các cựu chiến binh bị nhiễm chất độc da cam. Chương trình đã kiểm tra sức khỏe của trên 300.000 cựu chiến binh đã từng tham gia chiến tranh Việt Nam. Họ được chăm sóc sức khỏe, bồi thường thiệt hại do việc tiếp xúc với chất độc da cam, bên cạnh đó chương trình còn hỗ trợ con cái của các cựu chiến binh khi sinh ra bị dị tật, chăm sóc y tế và giáo dục đặc biệt.
          Trong thời gian qua, đã có rất nhiều vụ kiện lên tòa án Mỹ liên quan đến tác hại của chất độc da cam và hậu quả mà nó để lại sau chiến tranh Việt Nam, tuy nhiên những người Việt Nam chịu ảnh hưởng của chất độc da cam vẫn chưa bao giờ nhận được sự bồi thường mà họ đáng được nhận. Tại sao lại như vậy?
          Thứ nhất, Mỹ vô cùng khôn ngoan, xảo quyệt, đời nào chúng chịu thua kiện Việt Nam, nhận bồi thường khác nào chúng tự vả vào mặt mình, thừa nhận tội ác chiến tranh do chúng gây ra.
          Thứ hai, đã rất nhiều năm sau nhiễm độc, việc khó khăn là các mẫu xét nghiệm bây giờ mới lấy thì độ chính xác không cao, chứng cứ không rõ ràng.
          Thứ ba, Mỹ luôn tự huyễn hoặc, đề cao cái chúng gọi là “nhân quyền” – quyền con người, lấy cái cớ đó để bịp bợm, gieo rắc chiến tranh khắp nơi. Chấp nhận bồi thường thì xem như sự dối trá “nhân quyền” đó sụp đổ.
          Thứ tư, Việt Nam thua kiện cũng bởi vì dân tộc Việt Nam còn những kẻ “đào mồ xới mà” dân tộc a dua theo Mỹ, còn những người không tin vào sức mạnh dân tộc thì lấy đâu ra sức mạnh để thuyết phục dư luận thế giới.Còn những kẻ đang bịa đặt kia, đã bao giờ chúng mày về tận nơi có nạn nhân chất độc da cam, chứng kiến cuộc sống đau đớn cả thể xác, tinh thần của họ chưa? Đã bao giờ chia sẻ với họ những khó khăn, mặc cảm về cuộc sống mà đáng ra sẽ tốt đẹp hơn nhiều nếu không có cuộc chiến tranh của bọn đế quốc thực dân, không có chất độc da cam. Khẳng định là chưa bao giờ vì lũ chúng mày là bọn khốn nạn, vô lương tâm.




Chủ Nhật, 30 tháng 7, 2017

Nữ anh hùng Trần Thị Lý - Người mở màn cuộc chiến truyền thông giữa hai miền Nam Bắc.


"Giữa năm 1958, Bệnh viện Việt - Xô tiếp nhận một bệnh nhân đặc biệt. Hồ sơ bệnh án ghi: "Trần Thị Nhâm (tức Lý), tuổi 25, quê Miền Nam, cân nặng: 26 kg. Tình trạng bệnh: Suy kiệt, luôn lên cơn co giật, có 42 vết thương trên người liên tục rỉ máu, đầu vú bị cắt còn loét nham nhở, bộ phận sinh dục chảy máu liên tục".

Trần Thị Lý sinh năm 1933 tại Quảng Nam, bà tham gia Cách Mạng từ năm 12 tuổi. Trong giai đoạn từ 1951 - 1956, bà tham gia đường dây cán bộ nằm vùng và đã từng 2 lần bị bắt nhưng đều được tha vì không đủ chứng cứ. Năm 1956 bà bị chính quyền VNCH bắt lần thứ 3, bà bị tra tấn với những hình thức dã man nhất như: điện giật, dùi đâm, đổ nước xà phòng, dùng dao cắt vú, dùng lửa nung bộ phận sinh dục đến nỗi bị mất khả năng sinh sản...nhưng người phụ nữ trung kiên ấy vẫn không hé răng dù chỉ một lời. 
Tháng 10 năm 1958, Trần Thị Lý bị tra tấn tới kiệt sức, phía VNCH cho rằng bà không thể sống được nữa nên đem vứt bà ra ngoài nhà lao, bà may mắn thoát chết một cách hi hữu, được đồng đội bí mật đón về, chuyển sang Campuchia và được đưa ra Bắc chữa trị.

Sự kiện Trần Thị Lý bị bắt, bị tra tấn ngoài sức tưởng tượng đã làm rúng động dư luận thế giới bấy giờ và nó bắt đầu châm ngòi cho cuộc chiến truyền thông giữa hai miền Nam Bắc. 
* Ngay lập tức không lâu sau đó, 17 giờ ngày 25-10-1958, Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam tại Hà Nội đã phát đi bản tin về Trần Thị Lý với nội dung:
“Chị Lý bị bọn tay chân của Diệm bắt đánh đập, “sám hối” với những nhục hình dã man như: lấy kìm sắt kẹp vào người rứt ra từng mảng thịt, dùng điện tra vào đầu vú và bộ phận sinh dục!”.

* Tiếp đó, lúc 7 giờ 15 ngày 19-11-1958, Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam lại phát đi lời kêu gọi của Trần Thị Lý gửi Ủy ban Quốc tế, chị kể:
“Lần thứ 3, tháng 3-1956, chúng bắt tôi về nhà lao Hội An và tra tấn vô cùng dã man, tên Phan Văn Lợi, người do Diệm cử từ Sài Gòn ra, cùng nhiều tên khác trực tiếp tra tấn. Chúng đổ nước xà phòng và nước bẩn vào họng tôi rồi mang giày đinh thi nhau đạp lên bụng, lên ngực làm nước trào ra miệng và mũi. Chúng lấy móc sắt xuyên bàn chân tôi rồi treo ngược lên xà nhà, dùng điện tra vào cửa mình và vú; lấy dao xẻo từng miếng thịt trên đùi, cánh tay và ngực. Chúng dùng kìm sắt nung đỏ rồi kẹp vào bắp thịt tôi rứt ra từng mảng, dùng thước sắt thọc vào âm đạo... Chúng bắt tôi phải nhận tội “Thân cộng” và “Chống chính phủ quốc gia” của chúng!”.



* Ngày 21-11-1958, 5 bộ đội Liên khu 5 viết kiến nghị và được 2.000 đại biểu ký gửi đến Ủy ban Quốc tế phản đối sự dã man của chính quyền Sài Gòn đối với Trần Thị Lý. Từ ngày 11 đến 21-11-1958, 39 đoàn khách quốc tế đến thăm chị Lý và 62 đoàn tiếp tục đăng ký vào thăm. Đài Phát thanh Hà Nội cũng phát đi lời của ông Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt–Anh rằng: 
“Tôi đã từng chứng kiến tội ác của bọn thực dân đối với nhân dân thuộc địa song tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy người Việt Nam nỡ đối xử với người Việt Nam tàn tệ như thế. Với chính sách đàn áp dã man này, chính quyền Ngô Đình Diệm đã tỏ ra rất thối nát. Ủy ban Quốc tế tại Việt Nam cần lưu ý ngay đến vấn đề này, đó là nhiệm vụ của họ!”.

* Khi nhà thơ Tố Hữu đến thăm Trần Thị Lý, ông đã khóc rất nhiều vì quá xúc động. Tháng 12-1958, bài thơ Người con gái Việt Nam của ông ra đời (sau đó được dịch ra nhiều thứ tiếng), gây xúc động lòng người và là tâm điểm chú ý của dư luận quốc tế:
"Em là ai? Cô gái hay nàng tiên
Em có tuổi hay không có tuổi
Mái tóc em đây, là mây hay là suối
Đôi mắt em nhìn hay chớp lửa đêm giông
Thịt da em hay là sắt là đồng ?”

... “Tỉnh lại em ơi, qua rồi cơn ác mộng
Em đã sống lại rồi em đã sống !
Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung
Không giết được em, người con gái anh hùng !”

... “ Từ cõi chết, em trở về, chói lọi
Như buổi em đi, ngọn cờ đỏ gọi
Em trở về, người con gái quang vinh
Cả nước ôm em, khúc ruột của mình.”

Nguồn: Diễn đàn thanh niên Việt Nam

Bí mật chưa kể của Anh hùng tình báo Nguyễn Văn Thương



Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tình báo viên Nguyễn Văn Thương từng tham gia các mũi giao thông của các Cụm tình báo A18, A20, A22 và cuối cùng là A36 dưới vỏ bọc "Đại úy Ngọc, đặc phái viên của CIA". Nhờ vỏ bọc này, Nguyễn Văn Thương hoàn thành rất xuất sắc nhiệm vụ chuyển 900 chuyến tin tình báo của ông Ba Quốc (Anh hùng LLVTND Đặng Trần Đức) từ Tổng nha Cảnh sát ngụy, của cố vấn Vũ Ngọc Nhạ từ Phủ Tổng thống, của ông Hai Trung (Anh hùng LLVTND Phạm Xuân Ẩn) từ nội thành về chiến khu.

Về nguyên tắc hoạt động, các cụm tình báo phải rất tách biệt nhau, tránh tiếp xúc và các điệp viên không thể biết thủ trưởng các cụm tình báo khác cụm mình đang hoạt động. Tuy nhiên, Nguyễn Văn Thương lại khác. Ông được cấp trên tin cẩn đưa đi nhiều cụm tình báo và đến năm 1967 về làm Trưởng mũi giao thông Cụm tình báo A36. Nhiệm vụ chủ yếu là vận chuyển về căn cứ Trung ương Cục miền nam (R) các thông tin do ông Ba Quốc (Anh hùng LLVTND Đặng Trần Đức) lấy được. Ông Ba Quốc đã nhập vai sĩ quan CIA cao cấp suốt 24 năm và nếu Nguyễn Văn Thương khai (khi bị bắt và bị cưa chân), gây tổn thất rất lớn cho cách mạng, ấy là chưa kể đến các đồng chí khác như Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Xuân Ẩn, Nguyễn Văn Tàu... cũng có thể sẽ bị lộ vì Thương có mặt ở rất nhiều cụm tình báo chiến lược khác nhau.

Nguyễn Văn Thương kể: "Ở Cụm A36, ngoài anh Ba Hội làm cụm trưởng, còn có anh Bảy Anh làm cụm phó kiêm bí thư chi bộ. Căn cứ chúng tôi đóng trong một địa đạo phía nam Bến Cát (tỉnh Bình Dương hiện nay) ven sông Sài Gòn, đối diện căn cứ địa đạo Củ Chi (TP Hồ Chí Minh hiện nay). Mỹ mới tung 35 nghìn quân, 700 xe tăng, xe ủi đất và hàng trăm lượt máy bay bỏ bom, hàng nghìn lượt pháo nhằm xóa trắng căn cứ nam Bến Cát trong trận càn Xê-đaphôn. Lúc đó anh Ba Hội đang ở Sài Gòn, anh Bảy Anh không có mặt nên tất cả nhiệm vụ tại mặt trận, tôi phải gánh. Thêm nữa ngoài chuyện bảo vệ cơ quan tình báo của mình, tôi còn được lệnh phải báo cáo tình hình từng ngày và bảo vệ luôn các cơ quan quan trọng của Đảng trong khu vực".

Những ngày đầu của trận càn Xê-đa-phôn, hầu như tất thảy mọi người trong hầm đều bị chảy máu lỗ tai do sức ép của bom. Khi cây rừng (bị bom đánh gãy) bắt đầu héo úa, máy bay trực thăng bắt đầu được huy động tưới xăng rồi đến phản lực thả bom na-pan đốt cháy tất cả những gì hiện hữu. Nguyễn Văn Thương kể: "Nằm dưới hầm mà nóng đến độ phồng da, nước tiểu cũng không còn để uống, đói vàng mắt nhưng hầu như không ai có thể chui lên mặt đất. Chỉ đến khi chúng tôi tiếp tục khoét sâu hơn nữa vào lòng đất, chui xuống thì mới không bị chết cháy. Đến ngày thứ 16 của trận càn, Mỹ bắt đầu hút nước từ sông Sài Gòn lên bơm vào địa đạo. Tôi báo cáo anh Bảy Anh thì được chỉ đạo chia khúc địa đạo, lấp kín hết các ngách và tập trung vào ngăn giữa, nơi mà cả hai đầu đều được chúng tôi bịt kín. Nhờ vậy mà thoát chết. Rồi khi giặc thả khí độc vào địa đạo, tất thảy mọi người đều im lặng đắp khăn ướt, úp mặt xuống đất nên tuy có bị chảy máu mũi nhưng cũng không ai bị hy sinh. Cũng may là có một luồng gió thổi vào lỗ thông hơi nên khí độc mau tản ra".

Rồi Thương cùng đồng đội trong cơ quan tình báo bắt đầu đi thu gom bom chưa nổ để lấy thuốc về chế mìn tự tạo. Họ dùng thùng gánh nước cắt đôi, lèn thuốc vào, cột thêm sáu trái mìn định hướng ĐH10. Đêm ấy, Thương trèo lên ngọn cây, cột mìn lên theo hướng cho nổ hắt lên cao... Chiều hôm sau, một chiếc trực thăng chở đồ tiếp tế thả xuống đất, quả mìn nổ tung máy bay và làm chết nhiều lính Mỹ đang nhặt đồ hộp phía dưới. Còn các quả mìn khác, đồng đội của Thương gài năm quả, nổ hết bốn làm cháy bốn xe tăng, riêng các loại mìn tự tạo cũng tiêu diệt thêm 12 xe ủi đất và xe bọc thép của giặc. Ông nhớ lại: "Trận đánh đáng nhớ nhất là tiêu diệt toàn bộ một trung đội Mỹ đang tập kết chuẩn bị xăm hầm. Đêm đó, tôi và hai đồng chí tình báo khác cởi trần, mình trét bùn sình y như đặc công thứ thiệt bò tiếp cận trung đội Mỹ đang ăn uống. Chúng tôi cài ba trái mìn ĐH10 ở ba phía rồi bò lui ra. Tôi bắn thẳng một phát B40 vào đội hình địch, đồng đội tôi chập điện cho nổ liên tiếp mìn định hướng làm toàn bộ lính Mỹ nằm rạp chết hết. Tôi bồi thêm một phát B40 nữa rồi mới cùng đồng đội thu gom vũ khí, lương thực của chúng, chui xuống đất an toàn".

Dù bảo toàn lực lượng, nhưng đồng bào trong vùng bị càn cũng chết rất nhiều vì bom đạn. Cụm tình báo A36 đêm đêm lại bò lên mặt đất, thu gom xác người, rồi chôn cất cẩn thận. Về phía A36 cũng hy sinh hai tình báo viên khi các anh phục kích bắn máy bay lên thẳng. Ấy là vào một buổi chiều khi ba máy bay phun nước cho đám lính Mỹ tắm phía dưới, hai đồng đội của Thương nổ súng liên hồi làm rơi máy bay, và phía dưới đống sắt vụn do máy bay rơi là gần chục xác lính Mỹ bị đè bẹp. Bọn lính sống sót phía dưới đất bắn trả bằng đại liên làm nát cơ thể hai tình báo viên tên là Thơm và Mới.

Đến ngày thứ 26 của trận càn thì Thương được lệnh quay về ấp chiến lược. Cấp trên lệnh: "Nguyễn Văn Thương chỉ huy đưa hết toàn bộ lực lượng cách mạng trong vùng bị càn ở nam Bến Cát, vượt sông về vùng giải phóng ở phía bắc Củ Chi để tránh tổn thất"... Công việc dọn đường, tạo ám hiệu, bố trí bến đón, dự trù thực phẩm, trinh sát để đưa 175 cán bộ của Đảng vượt sông Sài Gòn chiếm mất một tuần của Cụm tình báo A36. Đúng giờ G, chiếc thuyền đầu tiên rời bờ sau khi ca-nô của địch vừa chạy qua, trên thuyền treo đầy lục bình và người chèo thả nhẹ theo con nước để sang vùng giải phóng. Cứ 6 - 7 lượt liên tục như vậy, Thương luôn có mặt trên từng chuyến qua - lại để chở hết 175 cán bộ sang sông một cách êm thấm. Xong việc, anh cười: "Giờ thì tụi Mỹ có càn tới ba năm cũng chỉ là cày xới đất cho chúng ta trồng khoai mì (sắn)".

Qua trận càn, cấp trên tổng kết lại thấy A36 đã tiêu diệt 12 xe tăng, năm máy bay lên thẳng cùng với thành tích đưa 175 cán bộ quan trọng của ta rút lui an toàn, cho nên trong đợt xét phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND năm ấy đã đề nghị đưa Nguyễn Văn Thương vào xem xét. (Ngay cả ông Ba Quốc - sau giải phóng - còn khen Thương: "Tao ở trong nội thành mà cũng được chia thành tích với A36. Lúc đó xót xa quá không biết anh em ở nam Bến Cát có "trụ" nổi không, nói chi đến việc chống càn và đưa cán bộ về vùng giải phóng an toàn..."). Cụm trưởng A36 là ông Ba Hội cùng các anh em sát cánh cùng Thương ở nam Bến Cát đều nhất trí cao. Ấy vậy mà khi đưa ra chi bộ để bình xét, Bí thư Chi bộ A36 là ông Bảy Anh phê: "Đồng chí Thương đã không bảo toàn được lực lượng trong đơn vị, để hai đồng chí là Thơm, Mới phải hy sinh. Vậy là chưa hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nên chưa thể phong Anh hùng". Thấy chuyện vô lý và xuất phát từ tính bộc trực, Thương lớn tiếng: "Trong chiến đấu làm sao tránh khỏi hy sinh mất mát. Nhiệm vụ chỉ huy ở mặt trận là của đồng chí Bảy Anh cụm phó, nhưng khi ấy đồng chí lại ở biệt bên trong địa đạo Củ Chi. Chiến sự ác liệt như thế mà đồng chí không sang sông đến cùng đơn vị, giao phó hết cho tôi. Tôi phải lăn lộn tìm đường cứu nguy cho 175 cán bộ. Đồng chí Bảy Anh là đại úy, tôi chỉ là trung sĩ, đồng chí Bảy Anh không nên phê phán vô lý như vậy!". Ông Bảy Anh đề nghị chi bộ bỏ phiếu kín. Hôm ấy, chi bộ A36 có sáu người, trừ Thương ra còn năm thì có bốn phiếu ủng hộ Thương, một phiếu chống. Vài ngày sau, cấp trên nhận điện từ Chi bộ A36: "Đề nghị bồi dưỡng lại, để lần sau cho xứng đáng. Có công lao nhưng tính thanh niên nóng nảy, còn phải xem xét lại".

Kể lại câu chuyện cách đây đã gần nửa thế kỷ, Nguyễn Văn Thương cười: "Tính thanh niên nóng quá hư chuyện, song tôi không buồn đồng chí bí thư. Có người chửi tôi lúc đó ngu, cứ làm thinh cho xong chuyện... nhưng sau đó vài tuần, tôi quên ngay câu chuyện và lại cùng đồng chí Bảy Anh hoàn thành các nhiệm vụ khác". Tình báo là một công tác thầm lặng, bên cạnh nhiều đơn vị, cá nhân đã được vinh danh, khen thưởng xứng đáng... thì vẫn có những hy sinh âm thầm và cả những day dứt, thậm chí bi kịch riêng không thể chia sẻ... Vẫn còn những bí mật mà tôi mãi mãi mang theo trong trái tim mình!".

Ngày 10-2-1969, Nguyễn Văn Thương bị bắt khi chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, kịp giấu tài liệu và hạ 20 lính Mỹ. CIA quyết tâm khai thác ông bằng mọi cách, kể cả dùng tiền, gái đẹp, chức vụ... Không khuất phục được Thương, bọn chúng ra lệnh cưa chân ông trong sáu lần làm cả hai chân của người tình báo cụt gần đến háng. Ngày 14-2-1973, giặc mới trao trả tù binh, Nguyễn Văn Thương được đưa đi an dưỡng ở miền bắc XHCN, được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND khi mới ở cấp bậc Chuẩn úy.

Giải mật quân sự

  • Posts
  • Comments
  • Pageviews

Top bài viết (Ngày)

Blog Lưu trữ